Theo KBSV cả chính sách thương mại và thuế quan có tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Tác động tích cực có thể giúp Việt Nam thu hút thêm dòng vốn FDI, nhưng cũng bị tác động tiêu cực nếu đồng DXY mạnh lên. Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng theo chiều hướng nào còn tùy thuộc vào khả năng ngoại giao.
Mỹ hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, chiếm 29% tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
(1) chuyển thêm các công đoạn sản xuất sang Việt Nam. Đây đều là những đồng minh thân thiết của Mỹ trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương và đang chiếm khoảng hơn 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ.
Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, đa số các doanh nghiệp FDI lớn từ các quốc gia này vẫn đang nhập khẩu phần nhiều linh kiện (>50%) từ các cơ sở sản xuất bên Trung Quốc sang Việt Nam (Bảng 2 & 3). Trong kịch bản Trump muốn làm chặt hơn vấn đề truy soát xuất xứ, các doanh nghiệp này có thể sẽ phải tiếp tục chuyển bớt các công đoạn sản xuất sang Việt Nam;
(2) Các tập đoàn đa quốc gia khác cũng có thể tiếp tục chuyển dịch sản xuất sang Việt Nam. Căng thẳng từ cuộc chiến thương mại tạo thêm động lực cho các công ty lớn chuyển dịch sản xuất ra khỏi Trung Quốc để giảm rủi ro.
Trào lưu này có thể không mạnh như giai đoạn 2018-2022 với các ví dụ điển hình như Apple, Intel, Foxconn, Lego, Sumitomo Wiring Systems... nhưng vẫn là một xu hướng còn tiếp diễn;
(3) Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nhóm doanh nghiệp FDI này được kỳ vọng vẫn có cơ hội tăng trưởng. Các mặt hàng tiêu dùng điện tử, công nghệ cao, thiết bị dụng cụ vốn nằm ngoài phạm vi áp thuế trong chiến tranh thương mại 2018.
Theo nghiên cứu của PIIE - Viện Kinh tế Quốc tế Hoa Kỳ, các mặt hàng này đã được ưu đãi về thuế trong cả nhiệm kỳ Trump (2018 - 2021) và Biden (2021 – 2024);
(4) Một số ngành hàng xuất khẩu chủ lực của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là dệt may, có thể gia tăng sức cạnh tranh với hàng Trung Quốc khi xuất sang Mỹ.
Mặc dù Mỹ có thể áp dụng mức thuế suất từ 10% đến 20% lên hàng dệt may Việt Nam, tác động thực tế sẽ không quá đáng ngại so với mức thuế hiện tại (8%-25%). Thậm chí, mức thuế 10-20% vẫn còn cạnh tranh hơn nhiều so với mức thuế 60% mà Trung Quốc phải đối mặt – vốn là một trong những đối thủ cạnh tranh chính của hàng dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, yếu tố hưởng lợi này sẽ được san đều sang một số nước mạnh về gia công khác.
Tác động tiêu cực
(1) Hoạt động của nhóm FDI đến từ Trung Quốc (chiếm tỷ trọng khoảng 20-30%) có thể sẽ chững lại. Điều này xảy ra khi căng thẳng thương mại gia tăng sẽ khiến các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động xuất khẩu sang Mỹ. Một hệ quả khác là dòng vốn FDI giải ngân mới từ Trung Quốc cũng có thể bị hạn chế;
(2) Mỹ có thể sẽ áp thuế chống bán phá giá nhiều hơn đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam. Trong bối cảnh thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam ngày càng lớn, đây là một rủi ro khá rõ nét. Hoạt động xuất khẩu của một số doanh nghiệp trong nước đối với các mặt hàng có dấu hiệu bị hàng Trung Quốc lách xuất xứ có thể bị ảnh hưởng. Một số ví dụ điển hình ở nhóm này là chất dẻo, sắt thép và gỗ (Biểu đồ 7 & 8; Bảng 4). Tuy nhiên, đây không phải là một yếu tố rủi ro mới và trên thực tế đã đã dần được phản ánh trong những năm gần đây;
(3) Rủi ro về tỷ giá gia tăng với xu hướng mạnh lên của đồng USD. Những biện pháp thuế quan đối với hàng nhập khẩu và chính sách hỗ trợ tài khóa sẽ khiến rủi ro lạm phát quay trở lại và FED có thể sẽ thận trọng hơn với lộ trình cắt giảm suất, trong khi mức lợi suất trái phiếu của Chính phủ Mỹ tăng cao. Tất cả những yếu tố này đều sẽ củng cố đà tăng của đồng USD. Trong ngắn hạn, USD mạnh hơn sẽ làm tăng rủi ro giảm giá cho VND. Bên cạnh đó, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đang ở mức thấp khoảng 87 tỷ USD (gần bằng 3 tháng nhập khẩu), điều này sẽ gây nhiều khó khăn trong việc điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước.
Mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa Mỹ và Việt Nam
Trong hơn 10 năm qua, Mỹ vẫn chủ động theo đuổi định hướng “xoay trục sang Châu Á Thái Bình Dương” và duy trì quan hệ tốt đẹp với các nước đồng minh, đặc biệt là Hàn Quốc và Đài Loan – 2 trong số 3 nước có các doanh nghiệp FDI lớn đầu tư vào Việt Nam, hiện đang dẫn đầu kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ (sẽ được phân tích kỹ hơn ở phần dưới của báo cáo).
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng mới thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ từ cuối 2023.
Từ những luận điểm này, mặc dù không loại trừ được khả năng Việt Nam sẽ nằm trong nhóm các nước bị áp thuế 10-20%, khi hiện đang xếp thứ ba trong số các quốc gia mà Mỹ ghi nhận có thâm hụt thương mại lớn nhất, nhưng chúng tôi cho rằng xác xuất Trump áp đặt một chính sách thuế nghiêm ngặt và toàn diện với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam là không cao. Thay vào đó chính sách thuế của Mỹ nhìn chung sẽ có tính “linh hoạt” hơn, chủ yếu tập trung nhắm vào việc kìm hãm tăng trưởng của Trung Quốc và các mặt hàng nhập khẩu cạnh tranh trực tiếp với ngành sản xuất của Mỹ.
Việt Nam là một trong các quốc gia hưởng lợi trong chiến tranh thương mại 2018
Chiến tranh Thương mại (CTTM) Mỹ - Trung 2018 đã kích hoạt quá trình dịch chuyển chuỗi cung ứng sang Việt Nam. Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Mỹ đã chứng kiến đà trưởng mạnh trong giai đoạn 2019 - 2022 (biểu đồ 5).
Tuy nhiên, hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, chiếm hơn 35% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, cũng ghi nhận mức tăng trưởng cao, đặc biệt ở những mặt hàng có mức tăng trưởng tương ứng với tăng trưởng xuất khẩu sang Mỹ, bao gồm Máy vi tính và linh kiện, Máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác, Chất dẻo, Sắt thép và Gỗ. Số vụ việc điều tra thương mại của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn này cũng đã gia tăng đáng kể (biểu đồ 6).
Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu đến từ nhóm doanh nghiệp FDI.
Trung bình, trong giai đoạn 2018 - 2022, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang Mỹ đạt khoảng 19% mỗi năm (biểu đồ 4), cao hơn đáng kể so với mức tăng 11% của tổng kim ngạch xuất khẩu. Đáng chú ý, 70% kim ngạch xuất khẩu là đến từ nhóm FDI. Riêng hai nhóm mặt hàng chủ lực là Máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; Máy móc, thiết bị dụng cụ và phụ tùng khác có mức tăng trưởng xuất khẩu sang Mỹ ấn tượng, trung bình đạt 50-60% mỗi năm (giai đoạn 2018 – 2022).
Theo ước tính của chúng tôi, các mặt hàng này chủ yếu được sản xuất và xuất khẩu bởi các doanh nghiệp FDI đến từ Hàn Quốc (30-40%), Trung Quốc (20-30%), và Đài Loan (10-20%).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét