Đường link trên báo Đầu Tư Tài Chính (trang 3)
LTS- Sau một loạt biến cố “Thiên Nga Đen” liên tiếp như Brexit, Bầu Cử Tổng Thống Mỹ, Samsung
Galaxy Note 7 bị nổ và thu hồi, và gần đây là sự sụt giảm mạnh của đồng NDT, nền
kinh tế Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc thu hút dòng vốn FDI và xuất khẩu.
Tác động riêng lẽ của mỗi sự kiện là không lớn nhưng tổng lực tác động của nhiều
sự kiện đang tạo ra sức ép phá giá ngày càng một lớn đối với VND. Việc tỷ giá tăng
mạnh trong thời gian gần đây và vượt mức 22,600 VND/USD phản ánh sự tác động của
nhiều áp lực.
Phải
chăng Việt Nam bắt đầu ngấm đòn ảnh hưởng Brexit và Bầu Cử Tổng Thống Mỹ?
Vào ngày xảy ra sự kiện
Brexit, hãng tin Bloomberg và Financial Times cho rằng Việt nam là quốc gia bị ảnh
hưởng nặng nề nhất trong 12 nền kinh tế tăng trưởng mạnh nhất ở khu vực Châu Á.
Việt Nam, theo sau là Campuchia và Hongkong là 3 quốc gia có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào Anh Quốc/GDP cao nhất nên là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp. Hãng tin Bloomberg
cho rằng, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU chiếm 6%-7% GDP, xuất khẩu
sang Anh chiếm 2.5% GDP sẽ chịu tổn thương khi Anh rời khỏi EU và gây ảnh hưởng
xấu đến tăng trưởng kinh tế. Đây là một trong những nhận định gây tranh cãi, nhất
là từ phía các chuyên gia kinh tế của Việt Nam vì kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Anh chỉ là 4.6 tỷ USD. Ngay cả khi bù khoản lỗ 10% do đồng Bảng Anh mất
giá, thì khoản lỗ chỉ là 460 triệu USD.
Hình 1: Bloomberg từng đánh giá Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh nhất bởi sự
kiện Brexit.
Hình 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào Anh Quốc (% GDP)
Trong khi đó, việc cả
hai ứng cử viên Tổng Thống Mỹ là Donald Trump và Hillary Clinton cùng tỏ thái độ
phản đối với hiệp định TPP khiến dòng vốn FDI vào Việt Nam có dấu hiệu chững lại
từ đầu năm 2016. Sự việc càng trở nên tồi tệ hơn khi Donald Trump đắc cử Tổng
Thống Mỹ vào ngày 8.11.2016 và đe dọa hủy bỏ hiệp định. Tổng Thống Donald Trump
đang gieo rắc bóng ma bảo hộ thương mại lên toàn cầu và làm suy giảm tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia có mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu như
Việt Nam.
5 tháng trôi qua kể từ
Brexit và kết quả bầu cử Tổng Thống Mỹ vừa ngã ngũ, đây là lúc chúng ta nhìn thấy rõ hơn tác động của các sự kiện kinh tế từ
bên ngoài đến Việt Nam khi quan sát các dữ liệu được công bố.
-
Sự
sụt giảm trong dòng vốn FDI sau Brexit:
Sau 10 tháng đầu năm
2016, Việt Nam thu hút được 17.6 tỷ FDI đăng kí và giải ngân được 12.7 tỷ, tăng
7.6% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, có dấu hiệu chững lại của dòng vốn FDI sau sự
kiện Brexit. Trong 6
tháng đầu năm 2016, nguồn vốn FDI thu hút được trong từng tháng đều tăng cao so
với cùng kỳ năm ngoái, và có lượng vốn đăng kí đạt 11.28 tỷ USD (tăng gấp đôi
so với cùng kỳ), vốn giải ngân là 7.26 tỷ USD (tăng 15.1% so với cùng kỳ), thì
các tháng sau sự kiện Brexit thì có chiều hướng tăng chậm lại. Đáng chú ý, vốn
FDI cam kết trong tháng 9 và tháng 10 bỗng sụt giảm so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong tháng 9 và tháng 10, cả nước ước thu hút được
lần lượt hơn 2.13 tỉ USD và 1.18 tỷ, tương ứng giảm 4.2% và 8.7% so với cùng kỳ
năm 2015. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn FDI bị sụt giảm cả ở vốn mới lẫn vốn
tăng thêm. Trong 10 tháng đầu năm, ngoài dự án đầu tư của LG Display có vốn
đăng ký 1.5 tỷ USD ở Hải Phòng, không có dự án nào có quy mô lớn như năm 2015.
Sự sụt
giảm trong dòng vốn FDI đáng chú ý là ở lĩnh vưc dệt may, cũng là ngành
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được
cho là sẽ hưởng lợi lớn nhờ TPP, bị sụt giảm mạnh về dòng vốn FDI. Năm 2014 và
2015, dòng vốn FDI vào lĩnh vực này bùng nổ để đón đầu hiệp định TPP. Riêng năm
2015, Việt Nam thu hút được hơn 4 tỷ USD (chiếm hơn 76% FDI đăng kí mới) vào
lĩnh vực dệt may với các dự án có quy mô lớn như Hyosung Đồng Nai (quy mô 660
triệu USD), Folytex Far Eastern (274 triệu USD)… Nhưng từ đầu năm đến nay, hoạt
động đầu tư FDI vào dệt may gần như im ắng và không có dự án lớn nào.
-
Các
sản phẩm xuất khẩu chủ lực như điện thoại, dệt may và máy vi tính đồng loạt gặp
khó vì tỷ giá và TPP
“Họa vô đơn chí”, sự kiện
điện thoại Galaxy Note 7 của Samsung bị nổ và thu hồi từ tháng 9 đang tạo ra ảnh
hưởng xấu đến lĩnh vực xuất khẩu điện thoại, là mảng xuất khẩu số 1 của Việt
Nam hiện nay. Năm 2015, lĩnh vực xuất khẩu điện thọai và linh kiện của Việt Nam
đạt tới 30.6 tỷ USD, chiếm gần 19% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (trong
đó, đóng góp chủ lực là Samsung). Trong 10 tháng
đầu năm 2016, nhóm mặt hàng điện thoại và linh kiện đóng góp nhiều nhất với 28.3
tỉ đô la Mỹ (tăng 10.3% so với cùng kỳ năm ngoái), chiếm tỷ lệ 19.6% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu ước đạt 144.1 tỉ đô la Mỹ ( tăng 7.2% so với cùng kỳ năm
trước). Sự cố Galaxy Note 7 không ảnh hưởng nhiều đến hiện tại nhưng sẽ
khiến cho Việt Nam mất đi tiền năng xuất khẩu trong năm 2017. Thậm chí, theo
đánh giá của Bloomberg[1], sự
cố Galaxy Note 7 sẽ làm tổn hại đến xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam
ngay cả trong năm 2016. Trong chiều hướng ngược lại, kim ngạch nhập khẩu điện
thoại có thể tăng lên do sản phẩm Iphone 7 của Apple, sẽ được nhà tiêu dùng lựa
chọn thay thế cho Galaxy Note 7, và điều này sẽ gây tác động xấu đến cán cân
thương mai.
Đây là
tác động bất lợi và cộng dồn thêm nhiều khó khăn hơn sau sự kiện Brexit. Sự kiện
Brexit đã làm tổn thương mảng xuất khẩu điện thoại, vốn là sản phẩm xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam vào Anh Quốc (hơn 1.6 tỷ USD vào năm 2015), chiếm tới 30% tổng
kim ngạch xuất khẩu vào Anh Quốc. Việc đồng bảng Anh mất giá tới 18% so với đồng
USD sau Brexit khiến Việt Nam mất lợi thế xuất khẩu.
Ngành dệt may, sản phẩm
chủ lực thứ hai của Việt Nam cũng cho thấy sự sụt giảm. Năm 2015, dệt may của
Việt Nam xuất khẩu khoảng 27 tỷ USD, đóng góp 14% vào tổng kim ngạch xuất khẩu
cả nước. Tuy nhiên, 9 tháng đầu năm 2016 chỉ xuất khẩu được gần 18 tỷ USD, tăng
gần 5% so với cùng kỳ năm ngoái và gần như khó đạt nổi mục tiêu 31 tỷ USD đặt
ra hồi đầu năm. Khó khăn bắt nguồn từ tổng cầu trong 6 tháng đầu năm 2016 của
thế giới sụt giảm. Việc TPP bị hoãn sẽ là đòn giáng mạnh lên xuất khẩu dệt may
vì cơ hội giảm thuế suất về 0% không còn. Trong khi đó ,các nước như Lào và
Myanmar đã hút lấy đơn hàng của Việt Nam vì thuế suất vào thị trường Mỹ thấp
hơn. Việc Donald Trump đắc cử Tổng Thống và tạo ra khả năng bảo hộ mậu dịch lớn
hơn sẽ đe dọa đến ngày dệt may của Việt Nam.
Sản phẩm
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ ba
(chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu) của Việt Nam lại có hai thị trường chính là
EU và Trung Quốc thì đồng Euro và NDT đang mất giá dữ dội so với USD. Đồng
Euro đã giảm 7% so với đồng USD từ sự kiện Brexit (giảm 3% từ đầu năm) và đang
hướng tới mức 1 đổi 1 với đồng USD. Trong khi đó, đồng NDT cũng giảm đến gần 6%
so với đồng USD. Điều này khiến lợi thế cạnh tranh của Việt Nam giảm sút. Tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này trong 10
tháng đầu năm 2016 ước đạt 14.79 tỷ USD, tăng khoảng 14% so với cùng kỳ. Nếu so
với con số tăng trưởng hơn 50% của cùng kỳ năm 2015 thì đó là bước thụt lùi.
Ngoài ra, mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện lại có tỷ lệ nội
địa hóa thấp (30%-35%) và phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu đến
từ Hàn Quốc và Trung Quốc nên việc đẩy mạnh lĩnh vực này cũng kéo theo nhập khẩu
tăng. Cụ thể, 10 tháng đầu năm nay nhập khẩu của lĩnh vực này là 22,7 tỷ USD, tạo
ra nhập siêu với trị giá 7.91 tỷ USD.
Tính
chung 10 tháng năm 2016 Việt Nam xuất khẩu 144 tỷ USD, tăng 7.2% so với năm
2015 và hiện đang xuất siêu 3.52 tỉ đô la Mỹ. Tuy nhiên, tăng trưởng đến từ sự
phục hồi của những mặt hàng nông thủy sản (như café, tiêu) trong khi top 3 các
sản phẩm chủ lực đang gặp khó khăn. Vì vậy, kết quả xuất khẩu của Việt Nam
trong 10 tháng đầu năm nhìn chung chưa đạt được kỳ vọng và khả năng khó đạt mục
tiêu 181 tỷ kim ngạch xuất khẩu năm 2016.
Phân tích trên cho thấy
tác động của mỗi sự kiện có thể không đáng kể nhưng hiện nay tổng áp lực của
nhiều sự kiện liên tiếp đang gây ra nhiều áp lực cho Việt Nam trong xuất khẩu
và thu hút dòng vốn FDI. Thậm chí, giới
chuyên gia Việt Nam có đã đánh giá thấp tác động của Brexit đến Việt Nam vì nó
không đơn thuần nằm ở mối quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Anh Quốc
mà là tác động lan tỏa của nó đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu, cụ thể là khu vực
kinh tế Eurozone. Theo Financial Times vào ngày 9.11.2016, Ủy Ban Châu Âu (EC)
đã hạ dự báo tăng trưởng của nền kinh tế khu vực Eurozone và Anh Quốc vào năm
2017 lần lượt xuống còn 1.5% (so với 1.7% trong dự báo trước) và 1% (giảm mạnh
so với mức dự kiến 1.9% của năm 2016) do ảnh hưởn của Brexit và bầu cử ở Mỹ. Tỷ
trọng xuất khẩu của Việt Nam vào EU ở mức 6%-7% GDP rõ ràng sẽ bị ảnh hưởng.
Hình
3: Tăng trưởng kinh tế của Anh Quốc và
Eurozone
vào
năm 2017 dự kiến sẽ giảm do Brexit và bầu cử Tổng Thống Mỹ
Sự sụt giảm trong dòng
vốn FDI và xuất khẩu đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm
2016. Ước tính của viện VEPR, khả năng tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2016 chỉ
ở mức 6%-6.3%, thấp hơn so với mục tiêu 6.5%-6.7%. Các áp lực này đang tạo kỳ vọng
Việt Nam phải phá giá VND giải tỏa áp lực.
Nỗi lo khủng hoảng từ “người láng giềng” Trung Quốc và ảnh hưởng
đến Việt Nam.
Việc Tổng
Thống Donald Trump đắc cử đang tạo ra các sức ép lên thị trường tiền tệ thế giới.
Chỉ
số USD Index đã tăng hơn 5% kể từ Brexit (và 2.6% từ đầu năm) và mạnh hơn sau bầu
cử Mỹ do giới đầu tư e ngại các chính sách rủi ro của Donald Trump. Đồng NDT
nhanh chóng giảm giá mạnh mới mức thấp kỷ lục từ cuộc khủng hoảng năm 2008 là
6.8950 NDT đổi 1 USD do Tổng Thống Donald Trump có thể áp đạt mức thuế bảo hộ
45% lên hàng hóa của Trung Quốc. Kịch bản chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc
và Mỹ được dấy lên Donald Trump khiến Bắc Kinh lo ngại sự tháo chạy của dồng vốn
như đã từng xảy ra từ giữa năm 2015 đến đầu năm 2016. Điều này được xác nhận bởi
phát biểu của chủ tịch Tập Cận Bình theo trích dẫn của Business Insider vào
ngày 18.11.2016. Theo Business Insider, ngân hàng PBoC có thể sẽ phải can thiệp
để chống bị tấn công tiền tệ nếu tỷ giá chạm đến ngưỡng tâm lý 7 NDT đổi 1 USD.
Theo một số nhà kinh tế, nếu không có sự can thiệp, tỷ giá đồng NDT/USD có thể
giảm đén 7.2 vào cuối năm 2017, tức giảm thêm 4.2% so với hiện tại.
Nhưng thực ra, sự mất giá của đồng NDT bắt nguồn từ tình
trạng bong bóng của nền kinh tế Trung Quốc. Từ tháng 3.2015, Trung Quốc đã tung
ra các gói kích cầu, mở rộng tăng trưởng M2 và tín dụng quá mức dẫn đến tình
trạng chênh lệch ngày càng lớn giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng M2. Đến
tháng 3.2016, tăng trưởng tín dụng của Trung Quốc là 25.4% trong khi tăng
trưởng M2 chỉ ở mức 13.5%, tạo ra mức chênh lệch gần 12%. Chênh lệch này đã mở
rộng từ 7.8% vào tháng 6.2015, thời điểm Trung Quốc bị tấn công tiền tệ và
chứng khoán với sự sụp đổ của chỉ số Shanghai Index. Điều đáng nói, sự chênh
lệch này là dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng tài chính như đã từng xảy ra với
Thái Lan và Hàn Quốc vào năm 1997-1998. Chênh lệch giữa M2 và tín dụng của Thái
Land đạt đỉnh 19.5% vào năm 1994 và tiếp tục duy trì tình trạng chênh lệch cho
đến khi bị tấn công vào năm 1998. Trong khi đó, Hàn Quốc từng đạt đỉnh chênh
lệch vào tháng 3.1998 tại mức 13% trước khi bị khủng hoảng. Trong cuộc khủng
hoảng 2006-2007, mức chênh lệch này cũng xuất hiện ở Hàn Quốc.
Việc tăng trưởng tín dụng cao hơn bất thường so với
tăng trưởng cung tiền là điển hình của một dạng bong bóng tài chính. Vì lúc
này, ngân hàng trung ương cố gắng bơm tiền để thúc đẩy nền kinh tế nhưng dòng
tiền lại không được nền kinh tế hấp thụ nên lại chảy ngược vào các thị trường
chứng khoán tạo ra bong bóng. Sự sụp đổ của TTCK Trung Quốc vào tháng 6.2015 là
một minh chứng.
Hình
4: Chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng và M2 của Trung Quốc cho đến tháng
3.2016
Hình
5: Chênh lệch giữa tín dụng và M2 của Thái Lan (trái) và Hàn Quốc (Phải) trước
cuộc khủng hoảng 1997-1998
Sau
giai đoạn bong bóng, tăng trưởng M2 và tín dụng của Trung Quốc đều sụt giảm mạnh.
Đến tháng 10.2016, tăng trưởng M2 của Trung Quố chỉ còn 11%, thấp hơn so với mục
tiêu 13%. Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng cũng giảm nhưng không nhiều. Thậm
chí, trong quý 3.2016, Trung Quốc phải thực hiện nới lỏng các điều kiện tín dụng
để tạo động lực tăng trưởng nợ vay trở lại nhằm hỗ trợ cho nền kinh tế. Theo số
liệu đến tháng 9.2016, tổng tài trợ xã hội (TSF-Total Social Financing), một
thước đo tín dụng rộng nhất của Trung Quốc đã tăng thêm 1,720 tỷ NDT lên mức
151,510 tỷ NDT, tương ứng với tăng 12.5% so với đầu năm. Theo Reuters, việc
tăng trưởng nợ vay đến từ việc hoán đổi nợ địa phương, tức đảo nợ.[2]
Do đó,
IMF vào tháng 10.2016 đã cảnh báo khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính ngân
hàng ở Trung Quốc[3]bởi những lo ngại về nợ xấu
từ sản phẩm WMP. Trước đó, vào tháng 9.2016, Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS)
lo ngại chênh lệch tín dụng (credit gap) tỷ số tín dụng/GDP so với xu thế dài hạn
đã vượt mức 30%vào quý 1.2016, trong khi tỷ lệ 10% đã cảnh báo rủi ro khủng hoảng.
Hình 6: Chênh lệch tín dụng của Trung Quốc tăng đến mức nguy
hiểm
Cảnh báo của IMF xuất
phát từ việc nợ doanh nghiệp của Trung Quốc đã lên đến 169% GDP và nợ của lĩnh vực
tư nhân đã lên đến 200% GDP và tạo ra rủi ro nợ xấu cho lĩnh vực ngân hàng. Con
số này đã tương ứng với cuộc sụp đổ của Nhật Bản vào những năm 1990 và khủng hoảng
Đông Á 1998, khủng hoảng nợ dưới chuẩn Mỹ 2007.
Hình
7: Nợ tư nhân/GDP của Trung Quốc đạt mức cao kỷ lục.
Biến động của đồng NDT
đang khiến Việt Nam phải chịu tác động trực tiếp. Tháng 8.2015, Trung Quốc phá
giá đồng NDT sau khi bong bóng chứng khoán sụp đổ khiến VND phải phá giá gần
3%. Điều này là do Trung Quốc là đối tượng cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam ở
nhiều lĩnh vực xuất khẩu chủ lực như dệt may, giày da, máy vi tính và linh kiện
điện tử. Vì vậy, việc đồng NDT mất giá
6% so với đồng USD đang gây ra e ngại kịch bản phá giá VND tái diễn như năm
2015.
Chính
sách tiền tệ của FED và chính sách tài khóa của Donald Trump đang gây sức ép
lên tỷ giá của VND.
Đồ thị sau cho thấy, tỷ
giá trung tâm của Việt Nam chạy sát với chỉ số USD Index. Do đó không hề ngạc
nhiên tại sao cơn sốt tỷ giá của Việt Nam trong tháng 11 trở nên mạnh hơn sau bầu
cử Tổng Thống Mỹ, một phần cũng vì nó làm tăng tốc sự mất giá của đồng NDT. Với
triển vọng FED sớm tăng lãi suất sau khi Tổng Thống Donald Trump đắc cử (xác suất
90% sẽ tăng vào tháng 12 theo dữ liệu của CME) và phát biểu trong phiên điều trần
của chủ tịch Yellen trong phiên ngày 18.11.2016 là “sớm tăng lãi suất”, khả
năng VND còn chịu áp lực mất giá trong thời gian tới.
Hình
8- Mối quan hệ giữa chỉ số USD Index và tỷ giá trung tâm VND/USD
Sự ổn định của tỷ giá
là điều Việt Nam mong muốn, tuy nhiên bài toàn điều hành chính sách tiền tệ trở
nên khó khăn trong bối cảnh lạm phát trở lại. Chỉ số CPI đến tháng 10 đã tăng
4.05% so với cùng kỳ và tăng 3.97% so với tháng 12.2015. Với xu hướng thường tăng
vào cuối năm, lạm phát hoàn toàn có khả năng chạm mục tiêu 5% đề ra vào đầu
năm. Sự trở lại của lạm phát không phải là vấn đề cục bộ của Việt Nam là đang
là xu thế của thế giới. Ở Trung Quốc và Mỹ, lạm phát hồi phục mạnh từ đáy tháng
6 khi Trung Quốc nới lỏng các điều kiện tín dụng nhằm thúc đẩy hoạt động vay
trong khi lạm phát ở Mỹ tăng do các khoản chi phí y tế tăng. Sự hồi phục của
giá dầu và một số loại giá hàng hóa khác do triển vọng OPEC cắt giảm sản lượng
dầu đáng kéo lạm phát tăng trở lại.
Kỳ vọng lạm phát trên
toàn cầu tăng cao hơn khi chính sách tài khóa mở rộng của Donald Trump vào năm
2017 có thể tạo ra lạm phát lớn hơn. Trong khi đó, Việt Nam là một quốc gia có
mức độ ảnh hưởng cao của lạm phát nhập khẩu nên những chính sách tài khóa và tiền
tệ của Mỹ sẽ tạo ra tác động tiêu cực.
Hình
9: Chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam
Bản thân lạm phát ở Việt
Nam có dấu hiệu tăng trong các tháng cuối năm là ảnh hưởng của chính sách mở rộng tín dụng trong quý 2.2015 khi tăng
trưởng tín dụng cao hơn cả tăng trưởng cung tiền M2. Theo nghiên cứu của IMF
(2013), độ trễ của tín dụng lên lạm phát trong khoảng 2-10 quý là lý do tại sao
lạm phát nhích trở lại vào năm 2016.
Hình
10: Tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2
Hiện nay, chính sách tiền
tệ của Ngân hàng nhà nước đang dần chuyển dịch sang hướng tập trung vào lạm
phát như là mốc neo với sự linh hoạt lớn hơn của tỷ giá. Với quỹ dự trữ ngoại hối
ở mức 41 tỷ USD, thanh khoản trong hệ thống ngân hàng dư thừa (Ttnh đến hết tháng 10/2016, tăng trưởng tín dụng đạt
11.45%, thấp hơn mức tăng trưởng 13.4% của tổng phương tiện thanh toán (M2) so
với cuối năm 2015), Việt Nam hoàn toàn có thể dập tắt con sốt tỷ giá hiện
nay. Tuy nhiên, bài toán còn phụ thuộc vào mức độ đánh giá rủi ro của NHNN vào
các biến số bên ngoài như khả năng tăng giá cao hơn của đồng USD và mức độ đồng
NDT bị tấn công tiền tệ. Sự tăng giá mạnh hơn của đồng USD, đồng nghĩa kịch bản
đồng NDT bị tấn công cao hơn và đe dọa nhiều hơn đến sự phá giá của VND. Nếu
NHNN chưa nhìn thấy các rủi ro này là quá lớn trong ngắn hạn, khả năng sẽ cho
phép VND phản ứng linh hoạt hơn bằng cách giảm giá theo kỳ vọng của thị trường.
Một số dự báo đang hướng tới khả năng VND/USD sẽ chạm mức 22,700. Ít nhất, khả
năng mất giá của VND sẽ còn kéo dài đến cuộc họp chính sách tiền tệ của FED nhằm
tránh rủi ro tỷ giá phải tăng shock nếu như FED thực sự tăng lãi suất.
Nhưng nên nhớ, sự mất
giá của VND đe dọa đến khả năng ổn định lạm phát của Việt Nam. Theo một nghiên
cứu của Rina Bhattacharya thuộc IMF (2013) về “sự năng động của lạm phát và cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt
Nam và các quốc gia mới nổi ở Châu Á” cho thấy, trong ngắn hạn, yếu tố
chính lái lạm phát của Việt Nam là tỷ giá. 1% phá giá của VND có thể làm tăng
0.33% lạm phát ở Việt Nam.
Trương
Minh Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét