Thứ Ba, 7 tháng 4, 2015

[Currency Wars] Bài 3: HỆ THỐNG BẢN VỊ VÀNG MỚI [Thử mô phỏng về một hệ thống tiền tệ mới của thế giới]

Đổ xô mua vàng

Mặc dù các nhà kinh tế và các chuyên giao vẫn tranh luận với nhau về vai trò của vàng (hàng hóa đơn thuần hay là một hệ thống tiền tệ), các ngân hàng trung ương lại dẹp bỏ- mua vàng vì vàng là tiền.

Từ năm 2002-2009, số lượng vàng bán ra của các ngân hàng trung ương giảm từ 500 tấn vào năm 2002 xuống còn 50 tấn vào năm 2009. Bắt đầu từ năm 2010, các ngân hàng trung ương bắt đầu mua ròng. Với lượng mua ròng gần 100 tấn vào năm 2002 tăng lên hơn 500 tấn vào vào năm 2012. Do đó, trong 10 năm từ 2002-2012, các ngân hàng trung ương chuyển sang mua ròng hơn 1,000 tấn/năm, lớn hơn 1/3 lượng cung vàng hàng năm của thế giới. Thậm chí, vàng sau khi khai thác tại các mỏ được chuyển thẳng trực tiếp tới các hầm dự trữ vàng của các ngân hàng trung ương.


Bảng 1: Dự trữ vàng của một số quốc gia.

Tất cả các ngân hàng trung ương mua vàng lớn nhất là ở Châu Á, Mỹ La Tinh và Đông Âu. Từ năm 2004-2013, các ngân hàng trung ương Tây Âu là người bán ròng mặc dù lượng vàng bán ra ngừng đột ngột vào năm 2009. Kể từ đó các nền kinh tế mới nổi đã mua vàng từ các nhà khai thác vàng hoặc từ thị trường mở, bao gồm 400 tấn vàng được bán bởi IMF vào năm 2009 và đầu năm 2010. Nếu chỉ tính các NHTW, loại từ IMF, lượng mua ròng trong dự trữ vàng chính thức được công bố tăng thêm 1,481 tấn, tăng 5.4% từ quý 4.2009 đến quý 1.2013. Các ngân hàng trung ương đang trở thành người mua lớn trên thị trường vàng. Vàng có xu hướng di chuyển từ Tây sang Đông.

Tuy nhiên, cần lưu ý là thống kê này chưa xem xét tỉ mỉ về Trung Quốc. Trung Quốc nói rằng dự trữ vàng của họ tăng 395 tấn từ năm 1980-2001 và dự trữ vàng đạt mức 500 tấn vào năm 2001. Sau đó, năm 2002 là 600 tấn và giữ nguyên đến năm 2008. Vào năm 2009, Trung Quốc công bố con số 1,054 tấn vàng và duy trì con số này đến đầu năm 2014.

Nhưng số liệu thực tế có thể là lớn hơn rất nhiều. Theo James Rickard, Trung Quốc đã có thể mua thêm vào khoảng 4,500 tấn vàng so với số liệu được công bố năm 2009. Con số này dựa trên số lượng vàng mà Trung Quốc mua trực tiếp từ các mỏ vàng ở Nam Phi và Tây Úc để không ảnh hưởng đến giá vàng trên thị trường. Ngoài ra, là số vàng thu mua tại các mỏ vàng ở Trung Quốc và được gửi đi lọc thành vàng thỏi ở Úc, Nam Phí và Thụy Sĩ, sau đó được chuyển trở lại hầm vàng ở Thượng Hải. Việc Trung Quốc mua trên thị trường chủ yếu là từ các đại diện của HSBC Hồng Kong và ANZ Bank Thượng Hải. Việc thanh toán được thực hiên qu qua các quỹ sovereign wealth fund, State Administration for Foreign Exchange được quản lý bởi nhà giao dịch trái phiếu PIMCO là Zhu Changhong. Vàng sau khi mua xong chuyển về hầm vàng Thượng Hải bằng đường hàng không. Ước tính Trung Quốc mua 600 tấn trực tiếp từ Perth Mint của Úc và các người bán khác tại mức giá 1,200 USD/oz trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 7.2013.

Ông thận trọng ước tính khoảng ½ nửa con số ước lượng, tức khoảng 2,250 tấn. Như vậy, dự trữ vàng của Trung Quốc có thể là 3,300 tấn vàng vào đầu năm 2014. Rickard ước tính, Trung Quốc có thể mua thêm 700 tấn vàng trong năm 2014 và dự trữ vàng có thể lên mức 4,000 tấn vàng vào đầu năm 2015. Điều này có nghĩa, dự tữ vàng của Trung Quốc đã vượt qua Pháp, Italia, Đức và cả IMF và trở thành quốc gia nắm giữ vàng lớn thứ hai, sau Mỹ.
Nga cũng nỗ lực mua vàng. Trong 9 năm từ 2004-2013, dự trữ vàng cũng tăng 250% từ 390 tấn lên hơn 1,000 tấn. Không giống như Trung Quốc, sự gia tăng này  gần như các nhà khai thác vàng nội địa và không dựa vào nhập khẩu. Nga là nước sản xuất vàng lớn thứ 4 thế giới, với sản lượng khoảng 200 tấn/năm. Ước tính, dự trữ vàng của Nga là hơn 1,100 tấn vào năm 2014, hơn 1/8 quy mô dự trữ vàng cua Mỹ.
Ngoài việc các quốc gia tăng dự trữ vàng, những quốc gia khác cũng đang tăng cường thu về lượng dự trữ vàng của mình. Ngoại trừ Mỹ, khoảng một nữa dự trữ vàng trên thế giới không được dự trữ tại quốc gia sở hữu mà được cất giữ tại Fed New York và BOE Luân Đôn. Hầm dự trữ vàng của Fed khoảng 6,400 tấn và BOE là 4,500 tấn. Ước tính Fed và BOE cất giữ giùm cho Đức, Nhật Bản, Hà Lan, IMF và các quốc gia khác khoảng 10,600 tấn.
Việc tập trung vàng tại New York và Luân Đôn là kết quả của bản vị vang từ năm 1870-1971. Thay vì vàng được di chuyển giữa các quốc gia, vàng được tập trung tại New York và Luân Đông để làm phương tiện thanh toán. Trong giai đoạn chiến tranh lạnh từ 1946-1991, vàng ở Đức di chuyển qua Mỹ để tranh nguy cơ bị Liên Xô tấn công.
Ngày nay, Venezue là yêu cầu BOE hoàn trả lại 99 tấn vàng vào tháng 8.2011. Đức, quốc gia dự trữ 3,391 tấn vàng, lớn thứ hai thế giới nhưng hiên đang gửi tại Mỹ cũng đang yêu cầu rút vàng về nước. Đức lên kế hoạch để Frankfurt phải nắm giữ 50% trữ lượng vàng của minh, New York chỉ giữ lại 37% và Luân Đông là 13%.

Tại Thụy Sĩ, vào năm 2011, quốc hội phê duyệt 100% dự trữ vàng của mình phải được cất giữ tại Thụy Sĩ.

Hệ thống bản vị vàng mới

Hệ thống bản vị vàng mới có thiết kế khả thi và hiệu quả hơn tùy thuộc vào việc thiết kế như thế nào và điều kiện nào khi được tung ra. Hệ thống bản vị vàng cổ điên, từ 1870-191, đã thành công lớn với việc tạo ra một giai đoạn ổn định giá cả, tăng trưởng thực cao và các phát minh lớn. Ngược lại, hệ thống bản vị vàng-tỷ giá từ 1922 đến 1939 bị thất bại và tạo ra Đại Suy Thoái.

Xem xét hệ thống bản vị vàng mới bắt đầu việc thấu hiểu hệ thống bản vị cũ. Khi hệ thống Bretton Wood bị phá vỡ vào tháng 8.1971, bằng việc Tổng Thống Nixon cấm chuyển đổi vàng bởi các ngân hàng trung ương. Thay vào đó, trong tháng 12.1971 đồng USD phá giá 7.89% nên mức giá chuyển đổi vàng tăng từ 35 USD/oz đến 38 USD/oz. Đến ngày 12.2.1973 phá giá 10% với mức giá chuyển đổi mới là 42.22 USD/oz. Sau năm 1973, hệ tống tiền tệ hướng tới cơ chế tỷ giá thả nổi.

Vào năm 1972, IMF can thiệp vào cuộc họp C-20 bao gồm 20 quốc gia thành viên. Vào tháng 6.1974, C-20 đưa ra hướng dẫn về hệ thống tỷ giá thả nổi mới và đề nghị SDR được chuyển sang làm tài sản dự trữ bằng vàng, làm tham chiếu cho tiền giấy.

Năm 1978, Nước Mỹ muốn bỏ rơi vai trò của vàng. Bộ Tài Chính Mỹ bán 300 tấn vào thị trường nhằm làm giảm giá vàng. Trong khi đó, Pháp và Nam Phi cương quyết tiếp tục giữ vàng như một tài sản dự trữ của thế giới.  IMF tiếp tục tích lũy số lượng vàng khổng lồ.

Từ năm 1981, với sự xuất hiện của Reagan, nước Mỹ bắt đầu hướng trở lại với vàng. Mỹ bán ít hơn 1% số lượng vàng còn lại từ năm 1981-2006 và từ năm 2006 không còn bán vàng. Phần lớn vàng hiện nay là tương đương với năm 1981.

Cấu trúc hệ thống bản vị vàng mới?

Hệ thống bản vị vàng mới thế kỷ 21 được xây dựng như thế nào? Nó chắc chắn mang tính toàn cầu, liên quan đến Mỹ, Eurozone, Nhật Bản, Trung Quốc và Anh Quốc và một số nền kinh tế mới nổi khác. Mỹ có thể tung ra đồng USD được dự trữ bằng vàng của riêng mình, dựa trên dự trữ vàng lớn của họ, nhưng nếu Mỹ làm điều này, các đồng tiền khác sẽ trở nên kém hấp dẫn. Kết quả có thể dẫn đến giảm phát. Chỉ hệ thống bản vị vàng toàn cầu có thể tránh giảm pháp nếu chỉ dựa trên nỗ lực của nước Mỹ.

Bước đầu tiên là một hội nghị tiền tệ toàn cầu, tương tự Bretton Wood, trong đó mỗi nước tham dự đồng ý thiết lập một đơn vị tiền tệ toàn cầu mới. Vì SDR đã tồn tại, khả năng cao đây là ứng cử viên cho đơn vị tiền tệ toàn cầu mới. Nhưng SDR mới là một đồng tiền được bảo đảm bằng vàng và tự do chuyển đồi thành vàng hoặc một đồng nội tệ của bất cứ thành viên nào của hệ thống.

Hệ thống này có thể gồm hai lớp. Lớp đầu tiên có thể là SDR, được định nghĩa bằng tỷ trọng cụ thể trong vàng. Lớp thứ hai gồm các tiền tệ riêng lẽ của mỗi quốc gia thành viên, chẳng hạn như USD, Eur, Yen hoặc đồng Bảng Anh. Mỗi đơn vị tiền tệ có thể được định nghĩa như một số lượng cụ thể của SDR. Vì đồng nội tệ được định nghĩa trong SDR và SDR được định nghĩa bằng vàng, bằng cách mở rộng mỗi đồng nội tệ sẽ có một giá trị cụ thể của vàng.

Vì mỗi đồng nội tệ được định nghĩa bằng SDR, và SDR được định nghĩa bằng vàng, nên mỗi đồng nội tệ cũng có giá trị của một lượng vàng cụ thể. Cuối cùng, vì mỗi đồng nội tệ có mối quan hệ với đồng SDR và vàng, mỗi đồng nội tệ có thể sẽ có mối quan hệ cố định với các đồng tiền khác. Ví dụ, 1 Euro = 1 SDR. 1.5 USD =1 SDR thì 1 Euro=1.5 USD.

Để tham gia vào hệ thống SDR vàng mới, các quốc gia thành viên phải có một tài khoản thanh toán, nghĩa là đồng nội tệ của họ có thể tự do chuyển đổi thành SDR, vàng, hoặc tiền tệ của các quốc gia thành viên khác. Đây không phải là vấn đề lớn đối với Mỹ, Nhật Bản, Eurozone và các thành viên khác hiện đã có tài khoản vãng lai mở (open captial account), nhưng nó có thể trở ngại với Trung Quốc, vốn chưa có tài khoản. Tuy nhiên, Trung Quốc có thể hấp dẫn các đồng tiền được bảo đảm bằng vàng, phi đô la như SDR mứi đủ để nó có thể mở cho mình một tài khoản vãng lai để gia nhập vào hệ thống mới sau đó.

Các thành viên được khuyến khích chấp nhận đồng SDR bảo đảm bằng vàng mới như là một đơn vị thanh toán trong khả năng lớn nhất có thể. Các thị trường toàn cầu như dầu mỏ và các nguồn tài nguyên khác có thể chuyển sang định giá bằng SDR hơn là USD. Các doanh nghiệp đa quốc gia lớn trên thế giới như IBM hoặc Exxon, có thể vẫn tiếp tục được nắm giữ SDR, và nhiều thước đo kinh tế như sản lượng toàn cầu, cán cân thanh toán, có thể được tính toán và đo lường theo đồng SDR. Cuối cùng, thị trường trái phiếu định danh bằng đồng SDR phát triển, với sự tham gia của cấc quốc gia nước ngoài, các công ty đa quốc gia, các ngân hàng đia phương và được mua lại bởi các sovereign wealthy fund và các quỹ hưu trí. Thị trường trái phiếu có trung gian là các ngân hàng toàn cầu quy mô lớn, chẳng hạn như Goldman Sachs, dưới sự giám sát của IMF. IMF lúc này trở thành một ngân hàng trung ương toàn cầu.

Một trong những vấn đề kỹ thuật là hệ thống SDR vàng toàn cầu tiềm năng này là xác định một tỷ giá cố định thích hợp. Ví dụ, 1 Euro nên bằng bao nhiêu USD 1.3; 1.4 hay 1.5.? Vấn đề này giống như những người sáng lập ra đồng Euro phải đối mặt tại cuộc họp Maastricht Treaty vào năm 1992, trong đó các bên tham gia đồng ý tạo ra một đông tiền chung từ nhiều đồng tiền nội tệ nhưu Lira (italia), Mark (Đức), Franc (Pháp)….Trong trường hợp của Euro, nhiều nghiên cứu kỹ thuật và lý thuyết kinh tế được phát triển bởi các định chế đặc biệt để thực thi nhiệm vụ này. Nghiên cứu kỹ thuật cũng tốt nhưng giải pháp tốt nhất vẫn là sử dụng các tín hiệu thị trường để giải quyết vấn đề. Các thành viên trong hệ thống mới thể thống báo một mức tỷ lệ cố định được xác định trong 4 năm dựa trên trung bình trọng số của các giao dịch ngoại tệ trong 12 tháng trước ngày công bố tỷ giá cố định. Giai đoạn 4 năm giúp thị trường có đủ khả năng điều chỉnh và xem xét những ẩn ý của hệ thống mới, và giai đoạn trung bình 12 tháng có thể làm phẳng những biến động bất thường ngắn hạn hoặc hành vi thao túng thị trường.

Vấn đề khó khăn nhất liên quan đến việc giá trị của đồng SDR được đo lường theo vàng như thế nào, và tỷ lệ dự trữ vàng yêu cầu để duy trì sinh tồn của hệ thống. Vấn đề có thể được giảm bớt để sử dụng một công cụ chung: giá vàng phi giảm phát hàm ý trong hệ thống tiền tệ được đảm bảo bằng vàng toàn cầu.

Ban đầu, hệ thống mới có thể hoạt động không có sự mở rộng của cung tiền trên toàn cầu. Bất cứ quốc gia nào muons có SDR và các đồng nội tệ khác. IMF chỉ thực hiện nới lỏng tiền tệ trong những trường hợp ngoại lệ và được sự chấp nhận của đa số thành viên trong các thành viên tham gia IMF trong hệ thống bản vị vàng mới.

Dựa trên việc hạn chế phát hành các đồng SDR mới, hệ thống sẽ tung ra một SDR như là một mốc neo và là một đơn vị thanh toán nhưng chỉ tồn tại một số lượng nhỏ các SDR. Cung tiền tệ cơ sở toàn cầu của các thành viên sẽ tạo nên tổng cung tiền toàn cầu, giống như ngày hôm nay, và tổng cung tiền này là điểm tham chiếu để xác định mức giá vàng hợp lý.

Một chìa khóa khác trong việc xác định số lượng vàng được bảo đảm nhằm duy trì tổng cung tiền toàn cầu. Các nhà kinh tế thuộc trường phái Áo khăn khăng nên bảo đảm 100% bằng vàng, nhưng không nên thực hiện quá nghiêm ngặt. Trong thực tế, hệ thống chỉ yêu cầu đủ dự vàng để cung cấp cho bất cứ ai muốn chuyển đổi sang vàng vật chất từ tiền giấy bảo đảm bằng vàng, đảm bảo chắc chắn rằng giá vàng cố định sẽ không thay đổi một khi được thiết lập. Có hai mục tiêu liên quan; sức mạnh của việ đảm phải sự thống nhất và cần ít vàng để duy trì niềm tin. Trong lịch sử, hệ thống bản vị vàng đã hoạt động thành công với mức bảo đảm 20% đến 40% so với lượng cung tiền. Dựa trên việc xóa bỏ vàng vào năm 1914, 1931 và 1971, cần phải có một tỷ lệ cao hơn để lấy được lòng tin của dân chúng. Minh họa, có thể 50% lượng cung tiền được đảm bảo bằng vàng; Mỹ, Eurozone, China và Nhật Bản và các nước thành viên, tổng lượng vàng nắm giữ giống như tổng cung vàng; và M1 là tổng cung tiền. Chia tổng ung tiền cho tổng cung vàng, chúng ta có môt mức giá vàng, phi giảm phát hàm ý, dưới chế độ tiền tệ SDR bảo đảm bằng vàng, xấp xỉ 9,000 USD/oz.

Con số này có thể gây nhiều tranh cải, nhưng 9,000 USD/oz là một ước tính tốt nhất về giá vàng phi giảm phát trong hệ thống bản vị SDR được đảm bảo bằng vàng toàn cầu. Tất nhiên, không gì có thể di chuyển một mình. Mức giá vàng 9,000 USD/oz cũng tương ứng với mức giá dầu 600 USD/thùng và giá bạc là 120 USD/oz.

Hệ thống bản vị vàng mới không gây ra lạm phát, nhưng nó có thể ghi nhận một sự lạm phát đã diễn ra trong tiền giấy từ năm 1971. Sự tăng vọt một lần này của giá vàng se là sự bác bỏ của xã hội đối với những sự bóp méo  được gây ra bởi sự dư thừa tiền giấy trong gần 40 năm qua. Các quốc gia thành viên cần phải điều chỉnh việc thanh toán trái phiếu cho những nhu cầu thiết yếu nhất dưới dạng hưu trí, an sinh xã hội, tài khoản tiết kiệm đến mức thỏa đáng. Giá trị danh nghĩa của nợ có thể là có thể không thay đổi. Các ngân hàng và người gửi tiền sẽ tàn lụi, một bước phát triển để tiến tới tăng trưởng. Những tên trộm bằng lạm phát sẽ là câu chuyện của quá khứ, cho tới khi hệ thống duy trì đủ lâu. Việc mở rộng tài sản sẽ được thay thế bằng việc làm việc chăm chỉ, tăng cao năng suất…

Những chính sách tiền tệ tùy tiện được thực hiện bởi các ngân hàng trung ương mỗi nước sẽ bị hạn chế trong hệ thống tiền tệ mới. Thực sự tỷ lệ dự trữ vàng để đảm bảo cho tiền giấy có thể tăng hoặc giảm theo thời gian tùy theo nhu cầu. Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương tham gia vào hệ thóng này cần phải được yêu cầu duy trì một mức giá vàng cố định trong đồng nội tệ của họ bằng cách mua và bán trên thị trường vàng vật chất. Bất cứ các ngân hàng trung ương nào

IMF thông qua kênh hoán đổi vàng được bảo đảm bởi các ngân hàng trung ương khác có thể săn sàng giải quyết sự thiếu hụt tạm thời của các ngân hàng trung ương nào. Hoạt động thị trường vàng sẽ giảm dần.

Điều quan trọng, IMF có những khả năng để tăng lượng cung SDR với sự chấp thuận của đa số các thành viên để giải quyết cuộc khủng hoảng thanh khoản toàn cầu, nhưng SDR và các đồng nội tệ phải duy trì được khả năng chuyển đổi tự do sang vàng vào bất cứ lúc nào. Nếu người dân có niềm tin vào những hành động ứng cứu khẩn cấp, hệ thống sẽ vẫn được duy trì ổn định. Nếu người dân nhận thấy tiền dược tạo ra để ứng cứu các tầng lớp trên của xã hội, việc đổ xô chuyển đổi sang vàng sẽ xuất hiện. Những tín hiệu thị trường sẽ là không chế sự lạm quyền của IMF và các ngân hàng trung ương.

Những người ủng hộ trường phái kinh tế Áo của hệ thống bản vị vàng cổ điển không chắc chắn bảo đảm cho hệ thống bản vị vàng mới vì nó là một phần, thậm chí là bảo đảm bằng vàng có thể thay đổi. Thuyết âm mưu cũng không chắc chắn ủng hộ nó vì hệ thống này mang tính chất toàn cầu và có vẻ như là một trật tự thế giới mới. Thậm chí những chỉ trích mạnh mẽ hơn vẫn chỉ ra rằng hệ thống này phụ thuộc hoàn toàn vào những cam kết của các chính phủ, và những lời hứa như vậy hoàn toàn có thể bị phá vỡ như trong quá khứ. Hệ thống bản vị vàng mới giống như một mô tả trước đây của Mundell rằng khu vực tiền tệ tối ưu là thế giới, và nó là một phiên bản về đề xuất của Keynes tại Bretton Woood trước khi Mỹ khăng khăng về đế chế USD.

Hệ thống bản vị vàng mới có thể giải quyết gần như ba vấn đề kinh tế quan trọng nhất của thế giới hiện nay: sự sụt giảm của đồng USD, nợ treo lơ lửng trên đầu, và sự đổ xô vào vàng. Bộ Tài Chính và Fed quyết định chính sách đồng USD yếu là phương thuốc cho việc thiếu tăng trưởng trên thế giới.Kế hoạch của họ là tạo nên lạm phát, làm tăng tổng cầu danh nghĩa, và dựa vào Mỹ để kéo nền kinh tế toàn cầu đi lên. Vấn đề là giải pháp của Mỹ tạo ra vấn đề mang tính chu kỳ. Giải pháp cho vấn đề mang tính chu kỳ này liên quan đến cấu trúc mới, bắt đầu tư hệ thống tiền tệ toàn cầu.

Tài liệu tham khảo
“The Death of Money- The coming collapse of the international monetary system”, James Rickards, 2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét