Sáng nay, báo có trích đăng tóm lược tại http://www.saigondautu.com.vn/Pages/20130527/Go-kho-tu-noi-cong-ngoai-kich.aspx
Ảnh
hưởng của chiến tranh tiền tệ
Việt Nam không phải ngoại lệ trong cuộc
chiến tranh tiền tệ được khởi động từ năm 2010. Là một trong những quốc gia đầu
tiên nhen nhóm lạm phát từ cuối năm 2009, Việt Nam chịu ảnh hưởng ngay lập tức
gói QE1 của Mỹ. Lạm phát Việt Nam sau đó tăng tốc từ tháng 5.2010 (gần thời điểm
Mỹ thực hiện QE2) và đạt mức đỉnh gần 23% (y-o-y) vào tháng 8.2011[1] chủ
yếu vì sự tăng nóng của giá thực phẩm và giá xăng, dầu. So sánh số liệu toàn cầu,
lạm phát Việt Nam thuộc hàng cao nhất thế giới và đứng số 1 Châu Á[2].
Lạm phát cao buộc Việt Nam phải “thắng gấp”
nền kinh tế bằng những biện pháp mạnh tay trong năm 2011 chẳng hạn như mức lãi
suất huy động lên đến 20%/năm (cao hơn so với mức trần 14%/năm)[3]. Lạm
phát cao cũng tạo nên hệ lụy lớn mà ngày nay SBV đang đối mặt đó là sự tích lũy
của vàng trong dân[4].
Theo Bussiness Insider, Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam chính là ba nước mua vàng
lớn nhất trong năm 2011. Trong khi đó, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cho rằng,
lượng vàng trong dân có thể lên đến 1,000 tấn.
Việt Nam phá giá tiền tệ như là một hệ
quả chứ không phải là chủ định nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu. Trong thời kỳ lạm
phát tăng tốc, Việt Nam đã 3 lần phá giá đồng nội tệ. Tháng 2.2010, SBV tuyên bố
phá giá 3.4%; tháng 8.2010 là 2.09% và tháng 2.2011 là cú sốc hơn 9%. Những cú
sốc vòng xoáy trên thị trường ngoại tệ, và thị trường vàng, khiến cho lạm phát
tại Việt Nam trở nên rất khó trị và ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế.
Khả
năng sụp đổ Minsky?
Mặc dù giảm phát nợ là một quá trình nội
sinh nhưng dưới ảnh hưởng của chiến tranh tiền tệ, nó sẽ làm cho quá trình này
nhanh chóng bộc phát. Kết quả cuộc chiến chống lạm phát đã bộc lộ khuyết điểm của
nền kinh tế Việt Nam. Cũng giống như Trung Quốc, các SOEs của Việt Nam được tập
trung một lượng vốn và tín dụng lớn dẫn đến nợ ngày càng tăng. Hệ số nợ/vốn chủ
sở hữu năm 2012 của các SOEs là 1.82 lần. Vấn đề tài chính của các SOEs khiến
tình hình nợ công của Việt Nam thực sự đáng lo ngại. Theo diễn đàn kinh tế mùa
xuân 2013 tại Nha Trang, nếu tính cả con số nợ của SOEs, nợ công của Việt Nam
có thể lên đến 128 tỷ USD, tương ứng 106% GDP năm 2011[5],
cao hơn so với con số 67 tỷ USD của chính phủ công bố. Suy ngược lại, nợ công của
các SOE đã lên tới gần 51% GDP.
Khi tình hình tài chính của các tập đoàn
kinh tế thiếu lành mạnh, rủi ro của sự đỗ vỡ là rất cao và gây nguy hại đến hệ
thống tài chính. Điển hình chính là con số nợ xấu gần 7.8 tỷ USD trong hệ thống
ngân hàng vào thời điểm hiện tại[6] (vào
cuối năm 2012 là khoảng 12 tỷ USD). Nếu như các tập đoàn đỗ vỡ hoặc phải tái cấu
trúc theo chiều hướng giảm nợ, tín dụng trong cả nước sẽ suy giảm bởi “người
chơi chính” không muốn đi vay. Lúc này, giá bất động sản sẽ rơi vào thời kỳ sụt
giảm mạnh, phản ánh quá trình sụp đổ Minsky.
Quan sát diễn biến nền kinh tế trong năm
2012 và quý 1. 2013 cho thấy nền kinh tế Việt Nam có thể không còn ở thời điểm
Minsky mà đang bước sang một giai đoạn khác: Sụp đổ Minsky. Giá bất động của Việt
Nam giảm 30% trong năm 2012[7] với
sự bán tháo của nhiều dự án địa ốc đình đám. Tăng trưởng tín dụng của Việt Nam
chỉ còn 7% trong năm 2012, quá thấp so với con số trung bình 30%/năm trong giai
đoạn 2000-2010. Tương ứng, lạm phát chỉ còn ở mức 6.8% so với cuối năm 2011, thấp
hơn hẳn con số 18.6% của năm trước đó. Mặc dù NHNN đã có những biện pháp nhằm hạ
lãi suất cho vay nhưng tăng trưởng tín dụng 4 tháng đầu năm 2013 chỉ tăng 2.1%
so với đầu năm. Lạm phát vì thế vẫn nằm ở mức thấp, với mức tăng 4 tháng chỉ tăng
2.41% so với đầu năm.
Nền kinh tế mất động lực tăng trưởng.
Tăng trưởng kinh tế tiếp tục chiều hướng suy giảm và chỉ còn 5.03% trong năm
2012. 100,000 doanh nghiệp đóng cửa trong năm 2011 và 2012. Trong Q1.2013 lại
có thêm 15,300 doanh nghiệp dừng hoạt động. Thất nghiệp là một vấn đề mới đầy
nhạy cảm và không có số liệu chính thức tại Việt Nam.
Có
nên thay đổi mục tiêu chính sách?
Việc chống lạm phát sẽ không để lại nhiều
di chứng nếu như các khu vực kinh tế như tư nhân hoặc chính phủ không tích lũy
quá nhiều nợ. Diễn biến của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2012 và đầu năm 2013
cho thấy căn bệnh tương tự như các nước thuộc khu vực Eurozone, Ấn Độ và khả
năng sắp tới là Trung Quốc, hay Mỹ.
Vì vậy, sự sụt giảm trong chỉ số CPI
trong thời gian vừa qua không phải là tín hiệu đáng mừng. Nó cho thấy tình trạng
giảm phát-nợ đang diễn ra trong nền kinh tế. Điều này đòi hỏi sự thay đổi trong
mục tiêu chính sách từ chống lạm phát sang chống giảm phát để phù hợp với tình
hình mới. Lý thuyết của trường phái Keyness cho rằng, cần một sự mở rộng của
chính sách tài khóa và tiền tệ để thoát khỏi tình trạng đình trệ kinh tế do giảm
phát nợ gây ra.
Tuy nhiên, nỗi ám ảnh lạm phát và thâm hụt
ngân sách đang khiến cho chính phủ và NHNN chưa có những hành động thực sự cần
thiết. NHNN đang cố gắng giảm lãi suất để vực dậy nền kinh tế nhưng điều này là
không đủ. Như Paul Krugman đã giải thích, “Các
doanh nghiệp điều chỉnh giá không phải vì cung tiền tăng lên mà vì sự thay đổi
trong nhu cầu sản phẩm”. Khi nền kinh tế giảm phát, doanh nghiệp nợ nần chồng
chất và tồn kho cao nên họ không có nhu cầu đi vay bất chấp lãi suất nằm ở mức
thấp. Thực tế đang chứng minh điều này. Năm 2012, tổng phương tiện thanh toán của
NHNN bơm vào nền kinh tế tăng 22.4% so với năm 2011, nhưng tăng trưởng tín dụng
chỉ ở mức 7%/năm. Trong khi năm 2011, tổng phương tiện thanh toán năm 2011 chỉ
tăng 10% nhưng tăng trưởng tín dụng lại ở mức 12%. Lý do là tồn kho công nghiệp
năm 2012 tăng 20% so với năm 2011. Tương tự là tồn kho bất động sản. Chỉ tính
riêng các doanh nghiệp niêm yết trên sàn đã có hơn 3 tỷ USD hàng tồn kho bất động
sản. Một cơ chế vòng xoáy hình thành: “Không vay được nợ vì nợ nần ở mức cao.
Không có tiền nền sản phẩm không hoàn thành, dẫn đến tồn kho tăng. Tồn kho
tăng, nợ tăng lên vì lãi…”
Cần hiểu rằng, khi nền kinh tế giảm
phát, tăng trưởng tín dụng không còn nằm trong tầm kiểm soát của NHNN. Vì nhu cầu
tín dụng thấp, các ngân hàng sử dụng nguồn tiền được NHNN bơm vào để chuyển
sang kênh đầu tư trái phiếu chính phủ. Tiền thực tế không chảy được vào nền
kinh tế mà chạy lòng vòng trong hệ thống. Điều này khiến cung tiền mở rộng
không tăng lên. Đây là thực tế trong năm 2012. Sau khi thị trường vàng bị cô lập
từ năm 2011, chính phủ vay được nhiều nợ hơn với mức lãi suất thấp hơn. Chính
phủ vay được vốn hơn có nghĩa đã lấy mất phần vốn dành cho khu vực tư nhân, ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Bảng
1. Huy động vốn trái phiếu chính phủ
đơn vị : tỷ đồng
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
Huy động vốn
|
64,000
|
65,000
|
81,716
|
140,000
|
Giải ngân
|
26,586
|
43,700
|
n.a
|
42,000
|
Nguồn: Thu nhập từ báo chí của tác
giả
Chính nỗi lo lạm phát khiến chính phủ tiếp
tục thực hiện các biện pháp thặt chặt tài khóa, đồng thời cũng nhằm làm giảm
thâm hụt ngân sách. Mặc dù lượng vốn huy động trái phiếu tăng lên nhưng chính
phủ lại chậm giải ngân khiến tình trạng nợ đọng tăng lên (xem bảng 1). Theo báo cáo của Bộ Tài Chính, : “tổng số nợ vốn đầu tư của 63 tỉnh, thành là hơn 91,000 tỉ đồng trong
hơn 47,000 dự án chỉ trong năm 2012. Trong số đó, đáng kể nhất là hơn 25,000 tỉ
đồng nợ các công trình đã hoàn thành, và gần 66,000 tỉ là nợ khối lượng đã thực
hiện tại các dự án đang triển khai”[8].
Chi tiêu của chính phủ giảm sẽ làm lực cầu của nền kinh tế suy yếu. Nhiều dự án thi công buộc phải dang dỡ khi
chính phủ chậm giải ngân. Đây là những nguyên nhân khiến kinh tế Việt Nam liên
tục suy giảm trong vài năm qua. Gói kích cầu là điều Việt Nam đang chờ đợi.
Không chỉ thu hẹp chính sách tài khóa,
chính tiền tệ của Việt Nam chưa thực sự mở rộng. Sự e sợ lạm phát khiến Việt
Nam tỏ ra dè dặt trong vấn đề tỷ giá. Trong khi hàng loạt các quốc gia phá giá
đồng nội tệ từ năm 2010 và đặc biệt sự leo thang của chiến tranh tiền tệ sau
hành động của Nhật Bản cuối năm 2012, nhưng quan điểm điều hành tỷ giá của Thống
đốc Nguyễn Văn Bình là giữ ổn định tỷ giá. Điều này thể hiện rõ trong năm 2012
khi tỷ giá biến động rất hẹp với biên độ chưa đến 1% mặc dù mục tiêu là +/-3%.
Gần đây, thống đốc tiếp tục thể hiện quan điểm với mức biến động mục tiêu không
quá 2%[9]
cho năm 2013. Theo giải thích của NHNN, việc phá giá đồng nội tệ có thể dẫn đến
lạm phát cao hơn ở Việt Nam[10] do
mức giá cả của Việt Nam đặc biệt là điện, than…chưa phản ánh đúng giá trị thị
trường.
Tuy nhiên, điều này chưa hẳn là đúng nếu
xét đến các yếu tố khác. Khi nền kinh tế bị giảm phát, người dân giảm chi tiêu
nền cầu hàng hóa sụt giảm, dẫn đến mức giá không tăng ở nhiều mặt hàng. Ví dụ,
nhập khẩu giảm do tình hình sản xuất trong nước suy yếu nên Việt Nam chưa chắc
đã nhập khẩu lạm phát. Không những thế, nếu như giảm phát diễn ra trên quy mô
toàn cầu khiến giá lương thực, thực phẩm, dầu giảm giá sẽ tạo ra áp lực giảm
giá CPI trong nước.
Việc giảm giá đồng nội tệ còn phụ thuộc
vào việc VND có định giá cao hơn so với nhiều loại đồng ngoại tệ hay không. Hiện
tại, kỳ vọng thị trường cho rằng VND đang được định giá cao hơn so với USD do lạm
phát cao hơn so với Mỹ. Do đó, cần áp lực giảm giá nhằm bảo đảm hàng hóa Việt
Nam không bị yếu năng lực cạnh tranh.
Chúng tôi không bình luận về việc Việt
Nam có nên giảm giá VND vào lúc này hay không. Thông điệp mà chúng tôi truyền đạt
là sự linh hoạt trong vấn đề phá giá VND tùy theo diễn biến của cuộc chiến
tranh tiền tệ. Liệu đồng USD sẽ phản ứng ra sao trước sự phá giá hàng loạt của
phần còn lại thế giới, đặc biệt là Nhật Bản và khu vực Eurozone? Việt Nam cần một
biên độ dao động cao hơn để có thể phản ứng trước những biến động tiền tệ của
thế giới.
Tài
Liệu Tham khảo
1.
“End this Depression now”, Paul Krugman,
tháng 1.2013.
2.
“Currency War: The Making of the next global
Crisis”, James Rickards, 2011
[5] Số liệu tại diễn đàn Kinh Tế Mùa Xuân
2013: http://songmoi.vn/kinh-te-tai-chinh/thuc-trang-no-cong-nhin-lai-bao-cao-cua-chinh-phu
[6]
Số liệu nợ xấu http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/reuters-viet-nam-qua-cham-chap-trong-giai-quyet-no-xau-2013050316160175312ca34.chn
[7] Số liệu của Vneconomy. http://vneconomy.vn/2012121704586178P0C17/bat-dong-san-2012-va-10-dau-an.htm
[8]
saigonTimes, ngày 6.12.2012, Trích nguồn
từ Bộ Tài Chính, nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/Home/xahoi/sukien/88241/Nhung-con-no-cua-nhau.html
[9]
Quan điểm điều hành tỷ giá của
Thống đốc: http://vneconomy.vn/20130505102046835P0C6/thong-doc-nhin-lai-dieu-hanh-tien-te.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét