“…
là lòng tham và nỗi sợ hãi”
Lời mở đầu
Bài
viết này thực ra được tôi hoàn tất vào năm 2010 khi tham gia một buổi hội thảo
vào tháng 4.2010 do Đại Học Kinh Tế TP.HCM tổ chức về chủ đề ứng dụng phân tích
kỹ thuật tại Việt Nam. Đây là cơ hội để tôi cụ thể hóa những nghiên cứu được thực
hiện trong suốt 2 năm từ 2009-2010 về thị trường tài chính. Bài viết này mô tả
quá trình biến đổi tư duy của tôi thành một astro-analyst.
Bản
chất của thị trường tài chính là câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi sau khi tốt nghiệp
vào tháng 6.2008. Tại thời điểm này, cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu
lan rộng và nó đặt dấu chấm hết cho tư tưởng thị trường tự do, điều tôi được học
trong ghế nhà trường. Tôi tự hỏi: “nếu
như học thuyết thị trường hiệu quả không thể hiện đúng bản chất của thị trường
tài chính, vậy cơ sở nào để phân tích một cách đúng đắn thị trường tài chính?”
Nhưng tự tôi không thể trả lời câu hỏi này.
Vào
một ngày (khoảng đầu năm 2009), khi vô tình đọc cuốn sách “Mô Thức Mới của Thị Trường Tài Chính” của George Soros, mọi thứ trong
tôi thay đổi đột ngột. Lần đầu tiên, tôi được biết đến quan điểm cho rằng: con
người có thể sai và hành động của họ không phải lúc nào cũng hợp lý trên thị
trường tài chính (nếu nói thẳng ra thì chẳng khi nào là hợp lý). Các quyết định
của nhà đầu tư thực chất chịu chi phối bởi cảm xúc hơn là lý trí. Điều này ngược
lại với những gì tôi biết trước đó: con người luôn thông minh và hành động một
cách hợp lý vì lợi ích của chính mình. Cuốn sách của Soros do đó, tạo nên một
bước ngoặt thay đổi đối với tôi. Tôi tìm nhiều tài liệu về chủ đề sự bất hợp lý
của con người. Thực ra, đây không phải là chủ đề quá mới mẻ. Nó vốn dĩ được đề
cập từ rất lâu nhưng tôi không chú ý đến. Với chỉ hơn 4 tiếng đồng hồ được nghe
ở giảng đường đại học, thực sự trong tôi không hề có chút lắng động về chủ đề
này.
Tính
bất hợp lý của con người là động cơ thúc đẩy tôi quay trở về tìm hiểu “chiêm
tinh học”, vốn được xem là bộ môn khoa học cổ xưa về tâm lý con người. Và tôi
cũng quay trở lại nghiên cứu sâu hơn về phân tích kỹ thuật, cũng là một công cụ
nghiên cứu tâm lý hành vi của các nhà đầu cơ, đầu tư trên thị trường tài chính
(có lẽ xuất hiện từ thế kỷ thứ 18). Đây là những nghiên cứu vốn đã phát triển từ
rất lâu trước khi ngành tài chính hiện đại ra đời.
Tôi
rất thích câu nói của tác giả Dan Brown, trong cuốn sách “Biểu Tượng Thất Truyền”:
“Khoa học hiện đại chẳng qua chỉ khám phá
lại những gì mà người xưa đã biết. Chúng ta chỉ mới chạm đến bề mặt…” Tâm
lý, ý thức con người có nhiều khía cạnh mà chúng ta ngày nay vẫn chưa hiểu hết được.
Trong khi khoa học hiện đại đang nỗ lực nghiên cứu về tâm lý con người thì từ
thời Babylon, người xưa đã đúc kết hiểu biết của họ về tâm lý con người trong
chiêm tinh học.
Thay
đổi nhận thức vốn là chìa khóa của sự phát triển. Quả thực, trong khi nhiều
ngành khoa học như vật lý, y học… đã đạt được nhiều thành tự mới mẻ vì những
thay đổi trong phương pháp luận thì ngành tài chính hiện đại đang dâm chân tại
chỗ và thụt lùi (Thứ lỗi với bạn đọc, đây là câu nói tôi trích lại từ Bill
William). Sở dĩ các ngành khác ngày càng phát triển vì họ đã ứng dụng tư tưởng
của Heraclit (Không ai tắm hai lần trên một dòng sông) hơn là đắm chìm trong
quan điểm của Plato/Sokrate[1]
(so-ca-rít) như ngành tài chính (quan điểm bất biến) .
Phần I: Quan điểm về bản chất thị trường
chứng khoán
Quan
niệm về thị trường tài chính có một vai trò quyết định trong việc định hình
cách thức sử dụng phương pháp phân tích của mỗi nhà đầu tư hoặc đầu cơ. Tôi rút
ra ba đặc điểm quan trọng:
-
Thị
trường tài chính là lòng tham và nỗi sợ hãi.
-
Tương
lai là thiên nga đen.
-
Thị
trường tài chính có cấu trúc và tính chu kỳ. Thiên nga đen do đó thực chất là
thiên nga xám.
1.
Thị
trường chứng khoán là không hiệu quả.
Từ
những năm 1980, lý thuyết thị trường hiệu quả được xem là lý thuyết nền tảng
cho thị trường tài chính hiện đại. Trên nền tảng của lý thuyết thị trường hiệu
quả, lần lượt các học thuyết như ATP, CAPM… ra đời và là cơ sở cho công việc quản
lý quỹ. Các nhà phân tích gọi đây là trường phái phân tích cơ bản. Lý thuyết thị
trường hiệu quả cho rằng, tất cả thông tin đều được phản ánh vào trong giá và
do đó, dưới góc độ của lý thuyết này, việc đi tìm hiểu giá cả quá khứ để dự báo
tương lai là “lãng phí thời gian”. Chính vì vậy, phân tích kỹ thuật, một trường
phái phân tích về tâm lý của các nhà đầu cơ trên thị trường tài chính, không được
giảng dạy một cách phổ biến ở các trường đại học danh tiếng trên thế giới. Lý
thuyết thị trường hiệu quả và trường phái phân tích cơ bản trở nên phổ biến và được
xem như ‘chính thống” hay “dòng chính” trong khi phân tích kỹ thuật được xem
như là “đáng hoài nghi” hoặc “phi chính thống”.
Tuy
nhiên, nhiên cứu “The use of Technical Analysis by Fund managers: International
Evidence” (tháng 4/2010) chỉ ra rằng, mặc dù
phân tích kỹ thuật không được chấp thuận về mặt học thuật nhưng lại được các
nhà thực hành tài chính sử dụng một cách rộng rãi. Theo đó, có 87% nhà quản lý quỹ sử dụng phân tích kỹ thuật để xử lý
thông tin và có 22% nhà quản lý sử dụng phân tích kỹ thuật để đưa ra quyết định
đầu tư. Ở tại thị trường chứng khoán Việt Nam, chưa có thống kê nào cho thấy
mức độ sử dụng phân tích kỹ thuật, nhưng theo quan sát của tác giả, phân tích kỹ
thuật ngày càng được các nhà đầu tư quan tâm. Bằng chứng là ngày càng nhiều
trung tâm đào tạo về phân tích kỹ thuật, các câu lạc bộ phân tích kỹ thuật được
mở ra.
Quay
trở lại khía cạnh học thuật, mọi chuyện đã đổi khác từ sau cuộc khủng hoảng tài
chính 2008. Cuộc khủng hoảng này đã làm thay đổi suy nghĩ của các nhà học thuật
về lý thuyết thị trường hiệu quả và thái độ của các nhà học thuật đối với những
lý thuyết khác cũng thay đổi, trong đó có phân tích kỹ thuật.
Cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008 đã cho thấy sự thất bại của học thuyết thị trường
hiệu quả. Mặc dù các chuyên gia kinh tế đã chỉ ra nguồn gốc của cuộc khủng hoảng
tài chính là việc chứng khoán hóa các sản phẩm thế chấp có nguồn góc từ thị trường
địa ốc thiếu lành mạnh (như CDO, MBS, ABS…). Tuy nhiên, nguyên nhân thực sự đằng sau chính là sự thất
bại của triết lý tư tưởng thị trường hiệu quả.
John
Maynard Keynes đã từng nói: “Tư tưởng của
các nhà kinh tế học và các triết gia chính trị, dù đúng hay sai, đều có sức ảnh
hưởng mạnh mẽ hơn chúng ta tưởng. Thực tế, là thế giới này do một số rất ít người
chi phối”. Chính triết lý thị trường hiệu quả đã tạo nên các chính sách kinh
tế sai lầm từ những năm 1980.
Theo
lý thuyết thị trường hiệu quả, thị trường luôn trở lại vị trí cân bằng dựa trên
sự hoàn hảo của thông tin, phân phối và tổ chức hoạt động của thị trường. Các
dao động chệnh khỏi vị trí cân bằng được cho là ngẫu nhiên và nhanh chóng trở lại
vị trí cân bằng dưới các áp lực thị trường (ví dụ như hoạt động Arbitrage). Lý
thuyết thị trường hiệu quả được hình thành dựa trên khái niệm thị trường hoàn hảo
trong kinh tế học. Đến lượt nó, lý thuyết thị trường hiệu quả đem đến niềm tin
“vững chắc hơn” về sự kỳ diệu của thị trường. Tư tưởng tự do hóa vì thế mà phát
triển mạnh mẽ.
Tư
tưởng tự do hóa thực chất đã xuất hiện từ rất sớm. Khi Adam Smith đề ra triết
lý “bàn tay vô hình” vào thế kỉ 18, tư tưởng này bắt đầu nảy sinh. Người ta tin
rằng, thị trường bản thân tự nó có thể sửa đổi các sai lầm và là một hình thức
hiệu quả để phân phối các nguồn lực xã hội. Các thành viên khi tham gia vào thị
trường với mục đích cá nhân có thể đem lại lợi ích cho toàn xã hội dưới sự dẫn
dắt của “bàn tay vô hình”.
Khi
cuộc Đại khủng hoảng 1929-1933 nổ ra, các nhà kinh tế nhận thấy thị trường
không hoàn hảo như Adam Smith vẫn nói. Thị trường trên thực tế không điều tiết
được các nguồn lực kinh tế là nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng thừa tồi tệ
nhất trong lịch sử. Việc học thuyết Keynes ra đời và thay thế cho học thuyết
kinh tế cổ điển khiến tư tưởng tự do hóa bị chìm lắng. Theo học thuyết Keynes,
chính phủ phải có vai trò lớn hơn trong việc sửa chữa những thất bại của thị
trường bằng cách đưa ra những quy định giám sát và hành động can thiệp. Sự ra đời
của các định chế tài chính thế giới như IMF, ngân hàng thế giới cũng không nằm
ngoài mục đích ổn định hệ thống tài chính thế giới.
Tuy
nhiên, chủ nghĩa tự do hóa đã trở lại vào những năm 1980 dưới thời tổng thống
Ronald Reagan (Mỹ) và thủ tướng Margaret Thatcher
(Anh), đã làm cho tư tưởng của Keynes rơi vào quên lãng. Reagan gọi đó
là sự màu nhiệm của thị trường và là tín điều thống trị trong suốt thời gian
ông cầm quyền. Sau khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ bởi mô hình kế
hoạch hóa tập trung, các hành vi can thiệp của chính phủ bị đặt dưới một con mắt
khinh ngại. Niềm tin vào sự hiệu quả của cơ chế thị trường do vậy càng lớn hơn
trước. Sự sụp đổ của bức tường Berlin vào ngày 9.11.1989 thực sự là dấu mốc
quan trọng của toàn cầu hóa, của cơ chế thị trường tự do trong lĩnh vực kinh tế,
thương mại.
Trong
gần 30 năm trở lại đây, tư tưởng tự do hóa đã lan ra cả thị trường tài chính.
Nước Mỹ dần nới lỏng các nguyên tắc quản trị rủi ro nhằm thúc đẩy quá trình tự
do hóa tài chính. Đạo luật bức tường lửa Glass-Steagall được thay thế bởi Đạo
luật Glamm-Leach-Bliley, cho phép các ngân hàng thương mại tham gia vào các
lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm như nghiệp vụ chứng khoán hóa và bán các khoản vay
bất động sản. Đầu thập niên 90, nước Mỹ đã truyền bá chủ nghĩa tự do cạnh tranh
ra cả thế giới bằng cách đưa ra cái gọi là “Đồng thuận Washington”. Bản chất của
Đồng thuận Washington chính là các chính sách cải cách kinh tế theo định hướng
thị trường tự do nhằm biến các nền kinh tế trở nên tự do hơn giống như các nền
kinh tế ở thế giới thứ nhất (mà Mỹ là đại diện). Mặc dù đồng thuận Washington
đưa ra các kỷ luật trong thực thi chính sách tài chính nhưng các nước như Mỹ,
Anh vẫn thường bóp méo nó.
Khi
tư tưởng tự do hóa lan rộng, các hàng rào kiểm soát được dỡ bỏ nhằm thúc đẩy
quá trình chu chuyển dòng vốn giữa các quốc gia. Các quốc gia vì thế đã trở nên
gắn bó hơn trong quá trình tự do hóa tài chính. Sự tiêu dùng của người Mỹ đóng
góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Nhưng ngược lại, chính Trung
Quốc đã tài trợ cho sự thâm hụt ngân sách của Mỹ bằng cách đầu tư lớn vào trái
phiếu chính phủ Mỹ. Thị trường tài chính càng được mở rộng, các sản phẩm tài
chính của Mỹ không chỉ được giới hạn trong khuôn khổ nước Mỹ mà các định chế
tài chính ở Châu Âu, Châu Á cũng nắm giữ các sản phẩm đó.
Chính
lòng tin vào khả năng thị trường tự điều chỉnh, Fed đã không tham gia can thiệp
để ngăn chặn các thảm họa trên thị trường tài chính như cuộc sụp đổ của Lehman
Brothers (ngày 15.9.2008)…Cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng và tạo nên đợt
suy giảm kinh tế tồi tệ nhất từ năm 1930.
Trong
phiên điều trần trước Thượng viện về trách nhiệm của mình trong cuộc khủng hoảng
tài chính 2008, Alan Greenspan đã nói: “Tôi
bị sốc vì mất niềm tin” (Nguồn: “Kỷ nguyên hỗn loạn”, tự truyện của Alan
Greenspan, 2008). Niềm tin của Alan Greenspan chính là niềm tin vào sự hiệu quả
của thị trường tài chính mà theo đó, tự bản thân thị trường có thể điều chỉnh lại
những biến động bất thường trên thị trường tài chính để đưa giá cả trở lại trạng
thái cân bằng. Nhưng cuộc khủng hoảng năm 2008 đã cho thấy thị trường đã thất bại
để tự điều chỉnh.
Trong
tác phẩm “Mô thức mới cho thị trường tài
chính”, George Soros đã chỉ trích lý thuyết thị trường hiệu quả. Theo
Soros, thị trường tài chính có một đặc điểm được gọi là “tính phản hồi”. Tính phản hồi là khả năng tác động của nhà đầu tư đến
giá trị nội tại của cổ phiếu. Chính khả năng tác động đó đã khiến cho giá cả
không có xu hướng trở về giá trị nội tại như thuyết thị trường hiệu quả vẫn
nói.
Thuyết
phản hồi và thuyết thị trường hiệu quả không hề cùng tồn tại. Soros nói: “Nếu thuyết thị trường hiệu quả đúng, thì
tính phản hồi không thể tồn tại. Cũng thế, nếu thuyết phản hồi đúng thì thuyết
cân bằng không có giá trị”.
Như
vậy, sự thất bại của lý thuyết thị trường hiệu quả đã cho thấy chúng ta có thể
sử dụng các học thuyết khác để phân tích thị trường tài chính. Lý thuyết thị
trường hiệu quả không phải là lý thuyết duy nhất cho thị trường tài chính.
Quan
điểm của những người theo học thuyết thị trường tự do luôn tin tưởng vào tư duy
hợp lý của con người trong mọi giao dịch tài chính. Nhưng thực chất, con người
kinh tế đã tuyệt chủng, theo như tên gọi của một cuốn sách cùng tên của Michael
Shermer.
Tôi
ưa thích góc nhìn của Shermer vì nó sử dụng một phương pháp rất hiện đại,
nghiên cứu về quá trình tiến hóa của bộ não con người đề phù hợp cuộc sống săn
bắt hái lượm sang cuộc sống thị trường tiêu dùng-buôn bán. (bạn nên tìm đọc cuốn
sách này: “Sự tuyệt chủng của con người kinh tế”.)
Tôi
có thể đưa ra một ví dụ cụ thể nhưng đằng sau nó cũng là một lời khuyên từ góc
độ tài chính hành vi. Theo nghiên cứu của Bnutson, “bất cứ khi nào các đối tượng
nghiên cứu đưa ra quyết định đầu tư mạo hiểm…,khu vực não bộ hoạt động tích cực
nhất (sử dụng công nghệ chụp MRI-cộng hưởng từ lên bộ não để biết) là vùng NAcc
có kích thước bằng hạt lạc, liên quan đến sự thưởng công và hưng phấn. Đáng chú
ý, NAcc có liên hệ với vùng được coi là trung tâm hưng phấn của bộ não được nạp
đầy chất dopamine và bị kích thích cao độ khi có hành vi sử dụng chất cocaine
hay giao hợp. Nghiên cứu của James Old và Peter Milner vào năm 1954 đã cho thấy
ở tất cả các loài động vật có vú, kể cả con người-vùng NAcc bị kích thích tạo cảm
giác cực khoái như khi giao hợp…Knutson nhận thấy mỗi khi người được thí nghiệm
lựa chọn đầu tư an toàn, vùng thùy đảo trước sẽ hoạt động tích cực. Chúng ta biết
thùy đảo có liên quan với quá trình tạo cảm xúc tiêu cực, do đó, thùy đảo trước
có thể hãm lại các quyết định đầu tư mạo hiểm.”
Giữa
hai vùng trên không phải là tách biệt mà có sự đấu tranh qua lại trong quá
trình ra quyết định. Nếu NAcc hoạt động mạnh hơn, con người có khuynh hướng lựa
chọn đầu tư mạo hiểm. Ngược lại, thùy đảo trước mạnh hơn, con người ưa thích sự
an toàn.
Đây
chính là lý do giải thích tại sao trong các sòng bài lớn luôn được bố trí những
cô gái phục vụ xinh đẹp (thậm chí là sexy tùy theo cách hiểu của bạn), đồ ăn ngon,
trang trí đẹp, và kể cả ánh sáng, âm nhạc nhằm tạo nên hiệu ứng kích thích lên
vùng NAcc. Lúc này, bạn sẽ ưa thích lựa chọn mạo hiểm hơn, liều lĩnh hơn và sẵn
sàn chi nhiều tiền hơn vào các ván bài. Rõ ràng, đây là chiêu mốc túi của những
người có hiểu biết về nghệ thuật tâm lý.
Hiểu
biết điều này cũng là một lời khuyên đối với các nhà đầu cơ. Đừng nên vừa giao
dịch tài chính vừa xem những bộ ảnh hoặc cuốn phim sexy vì nó sẽ khiến cho bạn
bị kích thích và hướng đến đầu cơ mạo hiểm. Điều cần thiết là cái đầu lạnh khi
giao dịch.
Đây
là những minh chứng cho thấy các quyết định tài chính chịu tác động từ yếu tố
tâm lý hơn là các tư duy hợp lý.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét